NGUYỄN ÁNH - VUA GIA LONG - CHÂN MỆNH THIÊN TỬ

    Trong lịch sử Việt Nam, vua khởi nghiệp có nhiều, vua kế thừa rồi phát triển đất nước lên rực rỡ cũng nhiều, nhưng nếu nói đến cụm từ "chân mệnh thiên tử" thì chắc hẳn tất cả sẽ nghĩ ngay đến vua Gia Long - Nguyễn Ánh. Tại sao lại vậy? Chúng ta cùng tìm hiểu nhé!
Nguyễn Ánh tên thật là Nguyễn Phúc Ánh sinh ngày 08/02/1762, là con thứ ba của Nguyễn Phúc Luân và bà Nguyễn Thị Hoàn. Nguyễn Ánh là cháu nội chúa Nguyễn Phúc Khoát dòng đích. Lẽ ra người kế vị chúa là Nguyễn Phúc Luân nhưng vì bị quyền thần Trương Phúc Loan làm loạn nên đã để người em nhỏ tuổi là Nguyễn Phúc Thuần kế vị để dễ bề thao túng.
Nguyễn Ánh sinh ra vào lúc nước Đại Việt đang trong bối cảnh chia làm hai với ranh giới là Sông Gianh ở Quảng Bình. Lúc này đằng ngoài có vua Lê chúa Trịnh, đằng trong thì dòng họ Nguyễn Phúc truyền đời nối ngôi chúa, mặc dù vẫn trên danh nghĩa dưới nhà Lê nhưng độc lập cai trị và không lệ thuộc vào vua. Như đã nói ở trên, cha ông bị ám hại, bị giam và mất trong tù từ lúc Ánh mới lên ba, bốn tuổi( các phần tuổi sau này có thể lệch 01 năm, vì cái kiểu tính tuổi của dân ta hay lố 01 năm khi làm phép trừ, các bạn thông cảm nếu có sai sót so với các bản ghi chép khác nhé). Biến cố này khiến Nguyễn Ánh được chú mình là chúa Nguyễn Phúc Thuần nuôi dưỡng. Đến năm ông lên chín thì ba anh em nhà Tây Sơn nổi dậy chống lại nhà chúa, họ Nguyễn Phúc bị quân hai mặt vây ráp, ngoài thì có nhà Lê Trịnh, trong thì nhà Tây Sơn. Lúc này vạn sự nguy, Ánh cùng anh em theo chân chú chạy vào Quảng Nam rồi vượt biển vào Gia Định. Lúc này kinh đô Phú Xuân bị quân Trịnh chiếm đóng, quyền lực của chúa Nguyễn bị lung lay dữ dội. Đến năm 1776 thì Ánh được giữ chức Chánh Sứ và được bàn việc quân mặc dù Ánh mới 14 tuổi. Đây là tiền đề để tạo ra một nhân vật lừng lẫy với đủ mưu kế, không từ thủ đoạn và quan trọng là sự kiên trì đáng ngưỡng mộ của Ánh.
    Đến năm 1777, dưới sự chỉ huy của Nguyễn Huệ, nhà Tây Sơn tiến đánh Gia Định, chúa Nguyễn Phúc Thuần cùng nhiều anh em và tất cả người trong họ Nguyễn Phúc bị giết hết. Lúc này Ánh đi cùng Nguyễn Phúc Dương, may mắn được đứa trẻ con nhà kép hát che giấu nên đã thoát nạn. Và đây chính là cột mốc quan trọng, mở đầu cho chuỗi ngày trốn chạy, lưu lạc, phục thù và gây dựng cơ nghiệp của Ánh.
Ánh tuy không mất mạng nhưng phải trốn chạy khắp nơi, đến Rạch Giá thì được sự giúp đỡ của một linh mục công giáo tên là Phao - lô Hồ Văn Nghị, Nghị giúp Ánh trốn sang Hà Tiên và trú tại nhà của Giám mục Bá Đa Lộc. Hai ông trên lại tiếp tục né tránh nhà Tây Sơn và Ánh phải trốn trong rừng, rồi lại được Bá Đa Lộc giúp trốn ra đảo Thổ Chu. Được tầm một tháng, khi anh em Tây Sơn về Quy Nhơn thì Ánh lại chạy vào Long Xuyên, tiến ra Sa Đéc cùng với các tướng trung thành với chúa Nguyễn tập hợp binh lực, bố cáo thiên hạ rồi chiêu binh mãi mã. Đến cuối năm khi cảm thấy lực lượng tạm ổn, ông cho quân mặc áo tang và đánh vào dinh Long Hồ ở Cái Bè( Tiền Giang) rồi trên thế thắng kéo thẳng quân vào chiếm lại thành Gia Định.
Năm 1778 khi Ánh được 16 17 tuổi, ông được các tướng tôn làm đại nguyên soái. Nhà Tây Sơn không để yên nên đã cho quân vào đánh Ánh. Quân của Ánh lui về Bến Lức( Long An), mở cuộc phản công, đánh về Bến Nghé( Gia Định) rồi chiếm lại Trấn Biên( Đồng Nai). Khi tạm ổn định Ánh cho đóng thuyền và tập trung nuôi dưỡng sức mạnh thủy quân. Tuy nhiên Ánh cũng không yên ổn vì tướng Đỗ Thành Nhơn cậy nhiều công có ý gây dựng thế lực, Ánh chia quân của Nhơn để dễ trị nhưng họ cũng phản. 
Năm 1780 Ánh xưng vương dùng niên hiệu Cảnh Hưng của nhà Lê , dùng ấn "Đại Việt quốc Nguyễn chúa Vĩnh Trấn chi bảo" làm ấn truyền quốc. Ánh sai sứ đi nước Xiêm nhưng bị gièm làm cho Mạc Thiên Tứ( con trai Mạc Cửu - người có công khai phá đất Hà Tiên và là cánh tay đắc lực của họ Nguyễn Phúc) qua đời.
Năm 1781 Ánh giả bệnh điều Nhơn đến và giết, sau đó cho quân thanh lý môn hộ, trận này một vài tướng khác của Ánh cũng mất. Cùng năm này bên Xiêm khá loạn, họ đánh Chân Lạp, Ánh cứu Chân Lạp và đánh Xiêm, nhưng trong triều Xiêm xảy ra mâu thuẫn, tướng Charki( Chất Tri) gặp biến cố trong nhà nên hòa với Ánh để quay về triều giết vua Xiêm là Taksin rồi lên ngôi xưng là vua Rama I. Thế là Ánh với Xiêm từ địch thành đồng minh. Cùng năm này quân của Ánh cũng lên được khoảng 03 vạn, thuyền thì khoảng 80 cái, một phần cũng nhờ sự ngoại giao tốt của giám mục Bá Đa Lộc nên Ánh có thuyền xịn từ Bồ Đào Nha( được 02 cái ^^!), Ánh cũng có được 03 cái thuyền lớn. Ngon, Ánh cho quân ra đến Phú Yên để va...chạm với nhà Tây Sơn. Cơ mà trận này Ánh thua vì bộ quân Tây Sơn đỉnh quá. Cai cơ Manuel là người phụ việc của Bá Đa Lộc đã chơi chiêu, lập mưu giết lính đánh thuê của Bồ Đào Nha và cướp thuyền của người ta, láo thặc. 
Đến năm 1782 vua Thái Đức Nguyễn Nhạc cùng với em trai mình, một thiên tài quân sự và cũng là nhân vật đỉnh nhất thời này - Nguyễn Huệ cho quân nam tiến. Mặc dù lực lượng của nhà Tây Sơn mỏng hơn, nhưng có Huệ thì Ánh không phải đối thủ. Trận va nhau ở sông Ngã Bảy và biển Cần Giờ làm cái tay cai cơ Manuel ở trên bị bắt và ép hắn tự sát. Ánh chạy sang Ba Giồng( khúc Long An - Tiền Giang) rồi trốn sang Chân Lạp. Huệ cho quân qua đánh Chân Lạp, bắt được cả vua quan Chân Lạp nhưng...Ánh vẫn trốn kịp. Mặc dù chiếm được Nam Bộ nhưng những người Hoa ở vùng này lại khá khó bảo, họ va với nhà Tây Sơn làm chết tướng quý của anh em vua Thái Đức là Đô đốc Phạm Ngạn. Cay vụ này nên Nguyễn Nhạc cho thịt khoảng 01 vạn người Hoa. Mâu thuẫn của nhà Tây Sơn từ khi giết người Hoa ở Hội An, giờ thêm cái vụ này thì cộng đồng người Hoa trong nước từ việc có cảm tình với Ánh giờ khô máu ủng hộ Ánh. Thế là Ánh có thêm tiền tài và nhân lực, quá đã. Ánh không chỉ có thêm đồng minh mà nhóm người này cũng giúp Ánh cầm chân nhà Tây Sơn, đô đốc Nguyễn Học vì đuổi Ánh bị quân nhà Nguyễn thịt, Ánh lại thu được 80 thuyền. Ánh mang quân và thuyền đánh ra Gia Định nhưng lại gặp Huệ, lại thua Huệ, lại chạy về Hậu Giang. Ánh cay quá cho người lẻn qua Xiêm cầu cứu, lúc này Chân Lạp về phe Tây Sơn, thành ra người của Ánh bị Chân Lạp thịt mất. Ánh phải lui về Rạch Giá( Kiên Giang), bị quân Chân Lạp đuổi, Ánh may mắn được Tiên phong Túy chặn giúp nên trốn được về Hà Tiên rồi trèo lên thuyền nhỏ lẻn ra Phú Quốc. Xong pha này anh em Tây Sơn thấy Ánh toang lắm rồi, nên để có 03 nghìn quân trông chừng Gia Định rồi lại rút về Quy Nhơn. Lúc này một tướng từng theo Tây Sơn lại mang quân từ Bình Thuận vào đánh Gia Định, do quân Tây Sơn ở Gia Định không nhiều nên Gia Định thất thủ, Ánh lại được họ đón về. Pha này Ánh cẩn thận hơn, sắp quân thuyền để chống Tây Sơn nhưng cũng dặn Bá Đa Lộc chừa đường để chạy cho dễ, mấy lần trước vất vả quá. 
Không ngoài dự đoán của Ánh, năm 1783 anh em Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ cho quân vào đánh Gia Định, Ánh lại thua và chạy về Ba Giồng. Pha này Ánh không cô đơn nữa mà có khoảng 100 người chạy cùng. Các bạn ạ, chạy nhiều nó cũng lên trình chứ. Ánh gom quân rồi cho đánh ở Đồng Tuyên, cơ mà trận này có Huệ, Ánh lại thua và chạy đến đoạn sông Vàm Cỏ Đông khúc Bến Lức, quân Tây Sơn đuổi rát quá, nước sông thì chảy xiết, quân của Ánh chết nhiều nhưng Ánh biết bơi, Ánh bơi qua sông và...lại sống. Chạy đến Đăng Giang, sông này có nhiều cá sấu, Ánh không dám bơi, cơ mà lại có một ông trâu nước nằm gần đó, thế là Ánh cưỡi trâu sang sông được, vãi chưởng luôn. Qua sông xong thì Ánh về Mỹ Tho đưa mẹ và vợ con trốn ra đảo Phú Quốc. Ánh sai Tôn Thất Cốc và Trần Đĩnh thám thính quân Tây Sơn ở Gia Định, cơ mà hai ông này cú nhau cái gì ấy mà Cốc thịt luôn Đĩnh. Thế là người của Đĩnh quay ra chống Ánh chiếm Hà Tiên. Ánh lại vào Hà Tiên thanh lý môn hộ. Lần này Ánh được quân Xiêm giúp hơn chục chiếc thuyền và 200 quân. Cơ mà Ánh động binh kiểu này nên lộ nơi trú ẩn nên lại rút ra hòn Đá Chồng( thuộc Phú Quốc). Ở chỗ này Ánh bị phát hiện và truy kích, trận này gấp quá khả năng Ánh sẽ oẳng, tuy nhiên tướng Lê Phước Điển lại mượn quần áo giả làm Ánh để hy sinh, quân Tây Sơn bắt nhầm nên Ánh lại thoát ra đảo Côn Lôn. Toàn bộ thuộc hạ của Ánh trận này không hàng nên bị thịt sạch.
Rút kinh nghiệm từ mấy lần trước, pha này Tây Sơn cho người bủa vây tìm Ánh, và họ tìm thấy thật. Nhận được tin, con rể của Nguyễn Huệ là phò mã Trương Văn Đa cho đại đội thuyền vây 03 vòng để bắt Ánh. Thế quái nào hôm ấy trời lại nổi giông, bão biễn kéo đến, thuyền Tây Sơn phải giãn ra, một số còn bị bão đánh đắm. Ánh lại "mạn thiên quá hải" tranh thủ trốn lên thuyền nhỏ rồi lênh đênh trên biển  bảy ngày đêm và chạy được về Phú Quốc, quá ảo. Lúc này quân của Ánh và cả Ánh cũng đói và khát, Ánh cho quân nhặt nhỏ cây ăn tạm may mắn được người phụ nữ tên là Thị Uyển chở nguyên một thuyền gạo đến dâng. Bão biển làm cột buồm gẫy cũng được dân buôn tặng sửa. Thật là chết đuối vớ được dây thừng. Ánh cảm thấy đau khổ vì thua hoài, Ánh vừa cay vừa nhục, tuy nhiên ý chí của Ánh lại càng mạnh mẽ hơn. Ánh nhớ đến Bá Đa Lộc, nhớ đến nước Pháp, và Ánh cho Bá Đa Lộc đi Pháp, mang theo tín vật cùng con trai cả để làm tin. Đồng thời Ánh cho Lộc toàn quyền thay Ánh quyết định mọi việc. Cơ mà ông Lộc này cũng báo lắm, ký kết cái hiệp định dở hơi làm cho sau này nước Pháp có cớ xâm lược nước ta. Ánh lại tìm cách quay về Gia Định, cơ mà lần này đi vòng hướng Bình Thuận thì bị Tây Sơn phát hiện, mang 20 chiến thuyền đuổi, Ánh hết hồn phải giăng buồm chạy ra hướng Đông, lại trôi dạt trên biển bảy ngày đêm mới về được đến Phú Quốc. Ánh về Cà Mau tập hợp quân rồi ra cửa sông Ông Đốc, Ánh thịt được tướng Tây Sơn là Quản Nguyệt, cơ mà pha này Ánh bị 50 chiến thuyền mai phục. May mắn thay Ánh bắt được một thuyền Tây Sơn trên đường và dò biết tin, thế là lại ba chân bốn cẳng trốn ra hòn Chông rồi chạy ra lại đảo Thổ Chu, lần này Ánh nhanh chân lẩn trước nên quân Tây Sơn lại không đuổi kịp. Vì có một vài sự cố nên Bá Đa Lộc chưa kịp sang Pháp, Ánh lại nghĩ đến anh bạn Xiêm La, Ánh cho người đi thẳng qua Xiêm cầu viện. 
Năm 1784 người của Ánh bị nhà Tây Sơn phục kích, lại thua. Lúc này có người trốn sang Xiêm được nên vua Xiêm là Rama đệ nhất cho 30 chiến thuyền về Hà Tiên đón Ánh. Ánh cùng với 30 viên quan sang Xiêm chầu vua Rama, mặc dù thân tướng Nguyễn Văn Thành can ngăn đừng cầu viện nhưng Ánh không nghe. Ánh tranh thủ mang vợ con lánh ra đảo Thổ Chu rồi cùng quan và vài mươi quân qua Xiêm để bàn đại sự. Vua Xiêm cũng e ngại lực lượng của Tây Sơn sẽ ảnh hưởng đến việc đánh Lào và Chân Lạp nên đồng ý giúp Ánh để phân tán lực lượng của Tây Sơn. Ánh tranh thủ gom quân và lực lượng cũ của cha con Mạc gia ở Hà Tiên. Đến tháng 06 năm này thì vua Xiêm cho hai tướng Chiêu Tăng và Chiêu Sương( sử Xiêm thì viết là một tướng tên Krom Luang Thepharirak) mang 300 chiến thuyền, 02 vạn quân thủy đi đường sông và thêm 03 vạn quân bộ tiến theo lỗi Chân Lạp để kẹp quân Tây Sơn. Liên quân lấy được Rạch Giá, Ba Thắc, Trà Ôn, Mân Thít và Sa Đéc. Quân Xiêm ỷ thế nên làm càn, cướp bóc của dân, hãm hiếp phụ nữ, Nguyễn Ánh rất thất vọng nhưng thế cờ này Ánh không nắm được đại cục nên đành nuốt giận làm thinh. Thế liên quân lớn quá nên phò mã Trương Văn Đa phải cho văn thư cáo cấp về Quy Nhơn. Tháng 12 năm này vua Thái Đức Nguyễn Nhạc sai chiến thần của Tây Sơn, vị nhất thế chi hùng - Nguyễn Huệ cho đại quân vào chống liên quân Xiêm-Nguyễn. Nguyễn Huệ cho quân vào Mỹ Tho, rải quân mở các cuộc tập kích để thăm dò. Đồng thời Huệ biết quân Xiêm tham tàn nên đã giả vờ giảng hòa và tặng cho chúng vàng ngọc nhằm tăng sự chủ quan và có thời gian chuẩn bị lực lượng, sắp đặt cạm bẫy. Quân Tây Sơn được khoảng 02 vạn nhưng thổi phồng lên 05 vạn, đồng thời súng của nhà Tây Sơn đang là đỉnh của thời này nên Nguyễn Huệ không ngại va chạm với bất kỳ thế lực nào. Máu anh hùng của Huệ càng lên cao khi biết được lũ Xiêm này chẳng khác gì rác rưởi, chúng tàn ác quá mức khiến ai nghe cũng căm phẫn. Không để chúng tiếp tục làm càn, Huệ chọn khúc sông từ Rạch Gầm đến Xoài Mút để làm trận quyết chiến. 
Canh 05 ngày 19 tháng 01 năm 1785 quân Xiêm lọt vào trận địa mai phục. Nguyễn Huệ chỉ đạo hạm đội súng trên thuyền bắn về hướng địch, đồng thời cho quân hai bên ven sông bẳn vào trung quân địch, sau hồi đầu thì cho thuyền nhỏ chứa vật dễ cháy đâm thẳng vào thuyền chiến lớn của địch. Đồng thời các thuyền quân linh động từ các nhánh sông nhỏ ùa ra đánh địch. Quân Tây Sơn đánh thúc hông rồi đoạn hậu làm quân địch tiến thoái lưỡng nan. Trong vòng nửa ngày, toàn bộ 300 chiến thuyền và 02 vạn thủy binh của Xiêm đã oẳng. Hai tướng Chiêu Tăng, Chiêu Sương dẫn được khoảng nghìn quân bộ trốn sang bờ bắc sông Mỹ Thọ, liều chết mở đường chạy sang Chân Lạp rồi về Xiêm. Xong trận này quân Xiêm khiếp đến tám đời. Nhắc đến Nguyễn Huệ là mặt chúng cắt không còn giọt máu. Về phần Ánh, sau khi thấy quân Tây Sơn tập kích thì Ánh quay đầu chạy thẳng, lần này tương đối chật vật, tướng của Ánh phải làm cướp để nuôi chủ, sau thì gom nhặt tàn quân được khoảng 200 quân và 05 chiếc thuyền chạy ra đảo Thổ Chu, bị quân Tây Sơn truy kích nên dẫn nhau qua Xiêm, xin miếng đất trồng rau nuôi cá để sống qua ngày, ở đây dân Xiêm gọi Ánh là Ông Thượng Sư. Về sau chính sử gia nhà Nguyễn cũng viết, đại loại là hai tên ngu đần Chiêu Tăng, Chiêu Sương tự phụ và tham tàn nên bại trận làm nhục quốc thể Xiêm La, chúng ngoài mặt nói cứng nhưng trong lòng sợ Nguyễn Huệ như sợ cọp.
Ánh sống ở Xiêm thì có tụ tập được tàn quân, thình thoảng cũng về đánh Gia Định cơ mà chẳng trận nào ra hồn. Đến năm 1787 thì sau nhiều trắc trở, Bá Đa Lộc cũng đến Pháp. Sau khi vận động các kiểu thì cuối cùng cũng được gặp vua Louis XVI tại cung điện Versailles, và ký hiệp ước Tương trợ tấn công và phòng thủ( nghe có vẻ thân thiện phết) hiệp ước thường gọi là hiệp ước Versailles. Hiệp ước với nội dung đại ý như sau: Pháp chu cấp cho Ánh 4 tàu chiến xịn, 1.200 bộ binh, 200 pháo binh, 250 lính da đen Châu Phi và một số khí tài tương ứng cho đội quân này. Nhưng Ánh phải nhường cửa biển Đà Nẵng và quần đảo Côn Lôn cho Pháp, Pháp được tự do buôn bán và kiểm soát thương mại của người nước ngoài ở Việt Nam. Sau đó mỗi năm phải đóng cho Pháp một chiếc tàu tương ứng với tàu Pháp đã viện trợ, phải chu cấp lương thực và quân nhu khi Pháp đánh các nước xung quanh khu vực Viễn Đông. Trong năm này thì Ánh được người Bồ ngỏ lời giúp, cơ mà Ánh đang ở nước người ta lại thư từ qua lại với nước khác thì không phải lẽ nên Ánh đã khéo léo từ chối, tuy nhiên trong con mắt của hoàng tộc Xiêm La thì Ánh không đáng tin nữa. Và khi phong phanh nghe được tin là em trai của vua Rama I muốn thịt mình, Ánh đã viết thư từ biệt để lại, đang đêm lẻn lên tàu chạy trốn về nước. Cơ mà Ánh bị tay Đệ Nhị Vương nước Xiêm này đuổi, lúc đấy trong đất Xiêm lại không có gió, thuyền của Ánh không chạy lại thuyền của Xiêm. Ánh lúc này nghĩ quẩn rút kiếm ra tính đâm cổ, cơ mà thuộc hạ can ngăn mãi, may sao trời lại nổi gió, thuyền của Ánh căng buồm lại nhẹ nên chạy thoát về được đến đất Việt. Đám Xiêm thì thấy mon men đến đây lại sợ Huệ nên chẳng dám đuổi nữa, thế là Ánh thoát sang đảo Cổ Cốt, cho gia quyến về đảo Phú Quốc, còn mình đi chiếm đất Cà Mau. Tay Đệ Nhị Vương đuổi không được thì sinh bẩn tính, bảo anh mình phong tỏa không cho người Việt về nước, cơ mà Rama I không nghe, nên Ánh lại gom nhặt được tàn quân. 
Đến năm 1788 năm mà Nguyễn Huệ đại phá quân Thanh thì phía bắc hà chiến tranh nên chủ lực Tây Sơn đồn về đó hết, đằng trong này thì Đông Định Vương Nguyễn Lữ thấy quân của Ánh lại mạnh lên, thêm vào đó là dân tình trong này họ mến Nguyễn Ánh hơn nên khá khó bảo, Nguyễn Lữ bỏ lại Gia Định rồi rút dần về Quy Nhơn. Sau Lữ bệnh mà mất, quân của Ánh đánh Gia Định thua nhiều hơn thắng, đánh mãi chẳng xong lắm lần còn chết hụt. Tuy nhiên nhà Tây Sơn lúc này lại xảy ra vấn đề nặng nhất, cụ thể là vua Thái Đức Nguyễn Nhạc e dè em mình là Nguyễn Huệ đang ngày càng mạnh, nên chỉ lo chăm chút vùng đất của mình, chẳng có bụng cứu miền nam. Mưa dầm thấm lâu, Ánh đánh thua thì lại gom binh, còn quân Tây Sơn ở Gia Định thì hao mòn dần, cuối cùng Ánh cũng đánh được thành Gia Định, lúc này thì viện quân từ Pháp mới đến. Nhắc đến đám viện quân này thì không phải quân theo hiệp ước Vecsailles kia đâu các bạn, vì nước Pháp có biến nên đổi triều hoán vị, rồi cái tay phụ trách hiệp ước lại ghét Bá Đa Lộc nên nói điêu làm chính phủ Pháp hiện tại không màng đến hiệp ước. Lộc thấy thế không ổn nên đã dùng tiền túi cùng với kêu gọi những người Pháp ủng hộ mua vũ khí và tàu chiến để mang về phục mệnh với Ánh. Bọn Pháp là lũ ăn điêu nói ngoa, về sau chúng lôi lại bản hiệp ước ẩm ương kia rồi lấy cớ xâm chiếm nước ta. 
Trong năm 1788 này Ánh thâu xong Gia Định thì cho tăng gia sản xuất, Ánh trị chính rất thông minh, điều phối nhân sự hợp lý, thu thập tất cả mọi người cho làm lính và được thuê đất canh tác, miễn thuế trong 03 năm đầu, thuế má áp dụng rất ưu đãi vì thế gạo của Ánh rất nhiều. Được sự giúp đỡ của người Pháp nên Ánh cho giao thương khoáng vật như sắt, đồng, chì...rồi Ánh cho bán đường, dầu chàm... Ánh còn cho phát triển nghề thủ công, đúc tạo diêm tiêu, súng hỏa mai...thành ra công thương nghiệp và nông nghiệp đều phát triển rất mạnh. Khi nghe tin quân Thanh được vua Lê cầu viện đánh bắc hà, Ánh còn cho thuyền chở 50 vạn cân gạo giúp quân Thanh, cơ mà ra biển thì bị đắm hết( tôi nghĩ là những người chở lương không muốn mang gạo cho quân thù nên đã bày trò trong việc này). Ngoài ra Ánh còn phải xử lý nhóm người Khmer khó bảo, cơ mà Ánh cân được hết. Thế của Ánh ngày càng vững, quân ngày càng nhiều. Tuy nhiên sau này để có tiền phát triển quân đội, Ánh cho thu thuế cao, cho lao dịch xây thành trì, phong hỏa đài( cái đài cao, đốt lửa thì ở xa thấy được, rồi cùng nhau đốt rồi tạo quy ước để thông tin cho nhau, món này bạn nào đọc truyện Tàu nhiều cũng biết). Ánh thấy mình mạnh rồi, viết thư cảm ơn nước Pháp và xin không cần sử dụng hiệp ước Versailles nữa. 
Năm 1790 Ánh cho quân đánh ra Bình Thuận, rồi năm 1792 Ánh dẫn quân đánh vào Thị Nại. Ánh ở trong nam bá đã lâu, Nguyễn Huệ bận ổn định phương bắc cũng đã xong. Lần này Ánh đánh vào thủ phủ của nhà Tây Sơn, Huệ không để yên nên hai anh em chuẩn bị vào để thịt Ánh rồi thống nhất đất nước. Ánh và quan quân nghe tin Huệ vào thì sợ mất mật, ai nấy tá hỏa lo cách phong giữ rồi rút chạy. Cơ mà lại một lần nữa Ánh gặp may, Nguyễn Huệ bỗng đột tử trong năm 1792 này. Thế là nhà Tây Sơn mất đi vị nhất thế chi hùng. Huệ mất thì Ánh chẳng kinh ai nữa, Ánh chơi chiêu tằm ăn lá cho quân đánh rồi rút bào lực lượng của Tây Sơn, lại mưa dầm thấm lâu, vua con Quang Toản nối ngôi cha nhưng năng lực có hạn nên cuối cùng Ánh thống nhất đất nước.
Tháng 05 năm 1802 Ánh lên ngôi, lấy niên hiệu Gia Long( Gia là Gia Định, Long là Thăng Long, ngụ ý thống nhất từ bắc tới nam). Sau khi lên ngôi Nguyễn Ánh trả thù nhà Tây Sơn rất tàn bạo. Ánh cho lăng trì, cho ngũ tượng phanh thây( 05 con voi cột dây kéo xác người), cho quật mộ nhà Tây Sơn đào lấy xương rồi bằm nát, tiểu tiện. Mang bài vị giam trong ngục tối, cho cắt đầu hoàng tộc Tây Sơn nhốt vào ngục, thân xác thì băm vằm, nói chung cực kỳ tàn bạo. Ngoài ra còn cho chiếu dụ những người họ hàng nhà Tây Sơn trong 20 đời ra làm quan, nhiều người tưởng thật ra xin thì Ánh cho giết sạch. Và sau này những người còn sống chọn ngày 20 tháng 10 âm lịch hằng năm làm ngày đại tang Tây Sơn. Nguyên nhân của việc này là nhà Tây Sơn thảm sát dòng họ Nguyễn Phúc, cho quật mồ các chúa nguyển thả thi hài trôi sông. Nói chung cả hai nhà chẳng nhà nào hiền trong cái vụ oan oan tương báo này.

Ta cùng luận về Nguyễn Phúc Ánh nhé!
Sinh ra thì loạn lạc, cả gia tộc bị thảm sát, bản thân bị truy sát. Trong thời gian trốn chạy thì hết trốn gầm giường, chạy qua đất ẩm để lại dấu chân, Ánh xin ông Trời che giúp dấu ấy thì trời đổ cơn mưa. Lênh đênh trôi dạt trên biển cả tuần mà vẫn sống. Có lần còn bị quân Tây Sơn bắt được, cơ mà người này có cảm tình với Ánh nên đã thả. Ánh trúng đạn trên thành nhưng cũng không chết. Ánh cưỡi ngựa chạy thì cây đổ phía sau làm quân Tây Sơn bị chẹn đường không đuổi được. Ánh đánh nhau với Bùi Thị Xuân, sắp thua thì Quang Toản sợ hãi thế nào lại bảo rút thế là Ánh đảo ngược thế cờ. Lúc ra công trường giám công thì mái sụp, hai hoàng tử trọng thương nhiều người chết tại chỗ, Ánh may mắn rớt xuống cái hố thế là chỉ bị dập chân và u đầu. Và còn nhiều nhiều nữa nếu các bạn tìm hiểu thêm, hoặc ai có biết gì thì bình luận bên dưới nhé! Ánh thật là chúa may mắn. 
Ở đời này, bạn giỏi cỡ mấy mà đấu với một ông siêu may mắn như Ánh thì bạn không ăn nổi đâu. Tuy nhiên nói đi cũng phải nói lại, Ánh may thế nhưng Ánh vẫn giỏi, chẳng qua Huệ quá giỏi, quá đỉnh nên Ánh cứ va với Huệ là lại thua. Huệ cay đến mức phá hết tông miếu nhà Nguyễn Phúc để triệt đường phù hộ cho Ánh, cơ mà Ánh lại được ông trời che chở, thế nên Huệ tài mấy cũng chẳng kham nổi. 

Giờ ta bàn đến công với tội nhé! Trước hết là tội. Nguyễn Ánh cõng rắn cắn gà nhà, từ xưa đến nay, ai mang quân từ bên ngoài vào để dân phải khổ thì đều là tội. Tây Sơn cũng không phải "gà", Tây Sơn mạnh bá đạo chứ đùa. Nguyễn Ánh có phản bội dân tộc? Nếu ta xét rộng ra một xíu thì thời đó chưa có khái niệm dân tộc, mà chỉ có khái niệm thiên hạ, khái niệm này ra đời vào năm 1882 tại phương Tây. Thế thiên hạ là gì? Là gồm bách tính và lãnh địa( có cả lãnh hải hiểu chung- thiên là trời, hạ là...chắc là đất, kiểu từ trên xuống dưới tất cả trong đó), tức là bất kỳ con người nào ở vùng đất nào mà một người chiếm đóng được thì đó là thiên hạ của người đó. Như mấy ông Tàu đi, từ xưa tới nay rất ngông, nào là thiên triều, thiên tử các kiểu. Cơ mà người Trung Quốc đâu có thuần chủng với cái mác dân Hoa Hạ. Họ còn bị nhà Nguyên rồi đến nhà Thanh, toàn thế lực ngoại tộc xâm chiếm. Rồi còn ngôn ngữ, mặc dù ra sức tuyên truyền thống nhất ngôn ngữ từ năm 1950 nhưng mà bản thân những người Trung Quốc họ vẫn không thống nhất. Tiếng Quan Thoại vẫn được dùng nhiều, ngoài ra còn tiếng Quảng Đông, tiếng Mân Nam... Còn người Việt ta thì sao? Tiếng Quốc Ngữ là điều mặc định mà 54 dân tộc anh em chấp nhận. Họ có nói tiếng của họ nhưng chắc chắn có dùng tiếng của người Kinh chúng ta. Vì đất nước ta đoàn kết, các dân tộc coi nhau như người nhà, như ruột thịt chứ không phân mảnh như Tàu. Trở lại với Nguyễn Ánh, khi dòng tộc nhà bạn hết rồi, còn một mình bạn, bạn phải trả thù cho họ tộc, phải lập chí lớn ở cái thời đó, thì đừng nói là triệu quân ngoài, cho dù âm binh dưới địa phủ mà gọi được hẳn là bạn cũng gọi. Vì sao? Vì thiên hạ phải có người cai quản, chiến tranh thì phải thiệt mạng, nó kiểu ý thức hệ thời đó. Ít người hiểu đại nghĩa là cốt ở yên dân. Ánh trả thù nhà Tây Sơn là do nhà Tây Sơn đã làm việc đó trước với Ánh. Tính ra Ánh không đại lượng, nhưng những năm tháng khốn khổ và nhờ nuôi dưỡng sự thù hằn đã giúp Ánh thành công. Và khi Ánh có điều kiện Ánh đã xả hết dồn nén bấy lâu. Nhắc thêm là không nên chửi Ánh dẫn voi về dày mả tổ, vì mả tổ nhà Ánh có còn nữa đâu, đau lòng lắm đúng không bạn? Túm lại ở hai việc này( cõng rắn cắn gà nhà, trả thù tàn độc) thì chứng tỏ Ánh còn sân hận, nhưng không đến mức quá tệ hại đúng không? Còn cái việc cho người thay quyền ký hợp định chẳng cơm chẳng cháo kia thì Ánh cũng bị động, Ánh cũng đã xin hủy, chẳng qua là quân Pháp lưu manh và tham lam, ta không thể đổ tội Ánh được. Vì Ánh không ký thì chúng nó đang bành trướng chủ nghĩa thực dân, kiểu gì cũng qua phá mình. Không Pháp thì Anh cũng mò qua. Nguyễn Ánh cắt đất Trấn Ninh cho Lào? Vùng này đã không còn thuộc nước ta từ thời vua Lê Thánh Tông, sau này Pháp đô hộ Lào và vẽ lại bản đồ thì đất đó đã hoàn toàn không thuộc về nước ta nữa.
Còn về công. Nguyễn Ánh thống nhất đất nước điều cực kỳ quan trọng trong chủ nghĩa dân tộc. Ông cũng làm cho nền kinh tế phát triển, tạo cơ hội cho nhiều người bần cùng có cơ hội hòa nhập cuộc sống, phát triển các điểm mạnh của cá nhân và địa phương. 
Có chăng hào quang của vua Quang Trung Nguyễn Huệ quá lớn đã làm lấn át đi ánh sáng của vua Gia Long. Tuy nhiên công bằng mà nói cả hai vị này đều là anh hùng. Mục đích của họ tuy khác nhau, tuy họ là địch nhân không đội trời chung, nhưng điểm chung của họ vẫn là thống nhất đất nước để mang lại hòa bình vững bền. 

Cảm ơn các bạn đã đọc đến đây, xem Nguyễn Ánh thoát chết bạn thấy thế nào? Nguyễn Ánh có giỏi không? Nguyễn Ánh đáng bị nguyền rủa không? Vua Quang Trung Nguyễn Huệ đã kiến tạo cho vua Gia Long những gì? Mời các bạn bình luận. Cảm ơn, thân chào!!!

Nhận xét

  1. À à à lên bài mớiiiiiiiiiiii

    Trả lờiXóa
  2. Mấy đoạn trốn được nghe ảo ảo

    Trả lờiXóa
  3. Tác giả muốn bênh vua Gia Long à???

    Trả lờiXóa
  4. Tôi thấy vua Gia Long có công nhiều hơn tội, vua Quang Trung đã kiến tạo và hoàn thành sứ mệnh lịch sử

    Trả lờiXóa
  5. Đã từng nghe Nguyễn Ánh hụt chết nhiều lần, mặc dù căng mắt đọc nhưng thấy rất đáng

    Trả lờiXóa
  6. Công nhận ông Ánh sống dai vãi

    Trả lờiXóa
  7. Đọc cụ xong qua cụ Huệ

    Trả lờiXóa
  8. Tôi thấy Nguyễn Ánh lỳ lợm nên thành công, còn về tài thì cũng tàm tạm thôi. Đánh với Nguyễn Huệ trận nào cũng thua, sau chơi trò tằm ăn lá và trời xui đất khiến thế nào mà cơ sự đều hợp với ông nên đăng quang được

    Trả lờiXóa
  9. Lên facebook xem mấy bài lật sử hay cực

    Trả lờiXóa

Đăng nhận xét